Những ô cửa màu xanh
Những ô cửa màu xanh
Những phút giây ngắn ngủi ấy tôi đã kịp nhận ra mình là một đứa con tồi, đã rất lâu rồi tôi không ngồi lại bên cha để lắng nghe ông nói.
***
Chúng tôi dời khỏi thị xã V vào một buổi sáng trời đổ mưa tầm tã, xám xịt và u ám. Khi ấy cha tôi gần bảy mươi, tóc đã bạc trắng nhưng vẫn còn nhanh nhẹn và minh mẫn lắm.
Trong khi bé Huy hí hửng vì sắp được đi hồ bơi, vào siêu thị mua siêu nhân và leo thang máy lên tít mấy chục tần nhà thì cha tôi ngồi lặng im, nhìn ra ngoài cửa xe, tay ôm di ảnh mẹ, thi thoảng lại nấc khan lên mấy tiếng. Không biết có phải vì mưa hắt qua cửa kính xe hay không mà lúc qua khúc cua rồi đổ đèo bỏ lại ngôi nhà và thị xã trầm lắng sau lưng, lúc ngoảnh lại bất chợt tôi thấy mắt cha nhòe nước.
Thành phố mà chúng tôi chuyển đến khá phát triển. Những tòa nhà cao tầng làm Huy thích thú, nó nhảy nhoi nhoi trên suốt đường đi và liên tục chơi trò đếm từng ô cửa. Cho đến khi choáng ngợp và đã thấm mệt, nó ngồi bệt xuống ghế rồi lay người ông bảo:
- Cháu chịu thua thôi ông ơi! Thế vừa nãy ông có đếm không, ông đếm được tất cả bao nhiêu ô cửa ạ?
Ông xoa đầu đứa cháu nhỏ rồi lại lặng lẽ thu mình chìm đắm trong dòng kí ức chập chờn về V. Nơi ấy đã tồn tại quá nhiều kỉ niệm về những tháng năm quây quần hạnh phúc. Khi đó mẹ tôi còn sống, cha còn trẻ và mấy anh em tôi chưa tan tác mỗi đứa một nơi. Chúng tôi lớn lên từ trong trẻo ấu thơ, tràn ngập thương yêu trong một ngôi nhà có rất nhiều ô cửa. Những ô cửa màu xanh...
Tôi biết cha yêu V. Yêu đến mức khi chúng tôi quyết định chuyển đi để bắt đầu một cuộc sống mới sau nhiều rạn vỡ và mất mát thì trái tim ông đã hoàn toàn tan vỡ. Thật tiếc thay, khi tôi nhận ra điều này thì dường như mười ba năm là một quãng thời gian dài khủng khiếp đầy ám ảnh đối với cha.
Tôi cũng chẳng sung sướng gì hơn vì có một quãng thời gian khá dài tôi luôn bị giằng kéo, dày vò giữa hai nhịp sống. Ở V tôi sống quãng đời tuổi trẻ lương thiện hơn nhưng nhận về toàn mất mát. Còn ở thành phố nhộn nhịp này đôi khi tôi trở thành người đàn bà nguy hiểm hơn bao giờ hết. Tôi sẵn sàng giương bộ lông nhím cảnh giác để tự bảo vệ mình. Còn cha tôi chọn cách sống lặng lẽ thu mình trong một thế giới riêng nhưng không ngớt những đợt sóng ngầm.
Chồng tôi là người thích ứng khá nhanh với vùng đất mới. Vì dẫu sao công việc của anh vẫn là những chuyến đi, ngôi nhà chỉ là bến đỗ cho vài ba ngày nghỉ hiếm hoi, ngắn ngủi. Vào những ngày đông đủ cả gia đình, chúng tôi thường ngồi bên nhau nhìn bé Huy vừa chơi trò xếp hình vừa quay sang hỏi "vì sao lại thế?" với bất cứ thứ gì đập vào mắt nó. Ở đây, mọi sự gắn kết đều có vẻ dời dạc và mệt mỏi, không như khi ở V, dưới thềm gạch xanh rêu những phút giây bên nhau sao mà mọng căng hạnh phúc.
Căn nhà ở V ngay khi mới rao bán đã có nhiều người đến hỏi mua. Trong số họ có người gật đầu đồng ý không cò kè thêm bớt một đồng nào chỉ chê sao nhà lại có nhiều cửa sổ. Cuối cùng bố tôi lại quyết định bán hạ giá cho đôi vợ chồng trẻ bế theo một đứa con thơ, chỉ vì họ tỏ ra thích thú khu vườn sau nhà và những ô cửa màu xanh. Chồng tôi sau những mệt mỏi đã mặc kệ mọi chuyện, miễn sao có thể dời V trong thời gian sớm nhất. Trước khi đi, tôi bảo anh:
- Xe thì nhỏ, chắc mình không thể chở tất cả đồ đạc đi được mà em thì không muốn bỏ lại bất cứ thứ gì. Dẫu sao cũng đã mấy chục năm sống tại ngôi nhà này, từng mảng rêu, từng bức tường và cả những cái nắm đấm cửa phòng đều in dấu tay của mẹ.
Anh mở toang cửa sổ, nhìn ra con đường chạy qua thị xã, khẽ thở dài:
- Không phải chúng ta dời khỏi đây vì đã có quá nhiều nỗi buồn sao? Quên đi được cái gì thì nên quên em ạ.
Tôi khác anh ở chỗ, tôi biết phân biệt rạch ròi đâu là niềm vui đâu là nỗi buồn, cái gì cần quên còn cái gì thì nên nhớ.
Tôi với anh cùng sống trong một ngôi nhà từ những năm ấu thơ, làm bạn với nhau rồi lớn lên lại thương yêu nhau nên nghĩa vợ chồng. Anh vốn là đứa trẻ mồ côi, mẹ tôi nhận về nuôi trong đợt đói kéo dài đầu những năm 80, khi đoàn người vùng xuôi tìm lên xin ăn chật chợ. Trong đó có một người đàn bà mang theo con nhỏ nhưng không may bệnh nặng lại đói rét, nằm chết bên góc chợ. Đứa con nhỏ được quấn quần áo ấm, khóc lịm người vì đói, dù hoàn cảnh không khá khẩm gì nhưng mẹ đã đón đứa trẻ ấy về nuôi.
Tôi không nhớ nhiều về những năm đói kém, chỉ nhớ những buổi ba mẹ hớt cơm trắng nhường mấy anh em tôi còn mình thì nhận về phần ngô bung trộn sắn. Dĩ nhiên lúc ấy làm gì đã có ngôi nhà với nhiều ô cửa này, chúng tôi ở trong một ngôi nhà lợp lá, vách đất và không có cửa. Anh cùng chúng tôi lớn lên, tình yêu thương cha mẹ san đều, sau này hai đứa lấy nhau bố mẹ làm mâm cơm cúng tổ tiên khóc trong hạnh phúc. Mẹ bảo:
- Chắc hai đứa bay có duyên với nhau từ mấy kiếp trước nên mới được cái kết có hậu đến thế này.
Cha xây thêm một tầng nhà, vẫn trổ nhiều cửa sổ. Ngoài ban công cha mang về nhiều chậu hoa, còn trong phòng cha treo nhiều tranh phong cảnh. Phải mất rất nhiều thời gian để chuẩn bị một căn phòng ấm cúng cho hai chúng tôi. Cha vẫn cười bảo:
- Nhà người ta chỉ chuẩn bị đám cưới cho một đứa con đã phải cầu kì, huống chi bố mẹ đây lo một lúc cho hai đứa. Thế là con rể cũng như con trai, con dâu lại chính là con gái. Nhà mình đúng là có phúc mẹ nó nhỉ?
- Đợi chúng nó sinh cho tôi và ông đứa nhóc nữa là vui cửa vui nhà lắm đây.
Khi ấy từng đàn chim bay về khu vườn sau nhà ríu rít. Cha đã rắc sẵn ít gạo tấm và vun lại ít lá khô cuối vườn để "biết đâu chúng cặp về xây tổ".
Khu vườn ấy từng là một thế giới chất chứa nhiều bí mật mà những tháng năm tuổi thơ anh cả và út từng say mê tìm kiếm. Quãng thời gian thơ nhỏ sống ở V tuy đạm bạc nhưng lại là khoảng thời gian viên mãn nhất. Lúc ấy cha còn làm thầy giáo, ngày hai lượt đạp xe lên lớp, tối về quây quần chơi với các con, uống chè, ngâm thơ với các cụ cùng ngõ nhỏ. Mẹ làm y tá trong bệnh viện thị xã, công việc không mấy bận bịu nhưng chiếm khá nhiều thời gian của mẹ.
Những ngày viên mãn không kéo dài thêm được bao lâu khi mẹ tôi bỗng chốc mắc bệnh hiểm nghèo rồi ra đi vào một buổi sáng mùa đông. Hôm ấy tiết trời ảm đạm, những ô cửa màu xanh đóng kín, cha ngã khụy dưới đám rêu trước nhà khi tiễn mẹ đi.
Tôi không muốn lưu giữ nhiều niềm đau ấy, chỉ muốn nhớ lại những tháng ngày cuối đời cha đã ở bên mẹ bằng tất cả ân tình mà những đứa con như tôi không bao giờ quên được. Mẹ vẫn cố gắng cười mỗi buổi sớm mai, khi ba pha bình trà thì mẹ bao giờ cũng là người mở đầu câu chuyện. Mẹ bảo:
- Mai này khi thằng Huy lớn lên chắc hẳn nó sẽ rất thích khu vườn này. Khi đó chúng ta phải luôn để mắt đến nó vì thằng bé chắc là hiếu động giống bố nó.
- Tôi sẽ dạy nó chơi cờ vua từ nhỏ. Rồi bà xem sau này lớn lên nó nhất định sẽ là một đối thủ đáng gờm. Lúc đó bà phải đứng bên mách nước cho tôi đấy.
Mẹ gật đầu, nhấp hụm trà mà mắt rưng rưng lệ.
Khi đó anh cả đang công tác trong đội trật tự trị an của thị xã. Công việc hay phải trực đêm, mẹ thường nấu nồi chè đỗ đen vào mùa hè hay cháo hạt sen vào mùa đông rồi thức đợi anh về. Thằng út thì đang tuổi mộng mơ thời sinh viên, thầm yêu trộm nhớ một ai đó nên đêm nào cùng cầm cây đàn ghi ta gảy những tiếng lòng sôi nổi mà đắm đuối. Cây ngọc lan bên hiên nhà dâng hương đêm lặng lẽ, qua những cánh cửa màu xanh rộng mở, giấc mơ êm đềm ngấm vào từng hơi thở mỗi chúng tôi.
Khoảng thời gian đó tất cả chúng tôi đều cố gắng sống vì nhau, bằng tất cả những yêu thương, mong nhận được nụ cười trên đôi môi mẹ. Tôi biết mẹ đã thức trắng biết bao đêm để hít thật sâu mùi hương đó, nghe thật đậm tiếng nói ấy và ghi khắc trong tim những hình ảnh cuối cùng của gia đình. Sau đó không lâu mẹ đã ra đi...
***
Thành phố mang lại một cuộc sống hiện đại cho mái ấm bé nhỏ của tôi. Nó cũng mang đến nhiều cơ hội nghề nghiệp cho chuyên nghành du lịch mà tôi từng theo học. Trái hẳn với khi ở V tôi chỉ biết quanh quẩn làm chân cán bộ, ăn lương nhà nước trong nhà văn hóa thị xã, ngày đến cơ quan đếm cho hết tám tiếng thì về. Ở thành phố này công việc tổ chức các sự kiện du lịch khiến tôi bận rộn hơn.
Chồng tôi tạo điều kiện cho vợ toại nguyện ước mơ học cao học, thế nên hết giờ làm tôi lại lao đến trường chẳng còn mấy thời gian ở trong ngôi nhà nhỏ. Có phải vậy mà lâu rồi tôi không còn nghĩ về những ô cửa màu xanh nữa, cuộc sống cứ cuốn tôi đi bằng ma lực của danh vọng, tiền tài khó lòng cưỡng lại.
Tôi thuê người giúp việc nhà, là một bác gái người từ quê lên chân chất, thật thà. Mọi công việc lớn nhỏ ở nhà tôi giao cho bác hết, từ việc làm cỗ cúng giỗ đến việc chăm lo bữa ăn, giấc ngủ cho ba và bé Huy. Tôi chẳng còn thời gian bận tâm những chuyện ấy nữa, chồng tôi thì càng không, anh quán xuyến mọi chuyện ở nhà qua những cuộc điện thoại ngắn ngủi. Sáng tỉnh dậy tôi chỉ kịp hôn con vội vàng, ghé qua phòng cha nhẹ nhàng, dặn bác giúp việc vài ba câu rồi lao ra đường, hòa lẫn vào dòng người đông đúc. Đêm về, phòng cha đã tắt đèn, Huy nằm dạng chân ngủ ngon giấc, chỉ còn bác giúp việc vẫn cặm cụi dưới bếp tranh thủ giặt giũ hay dưa muối. Tôi ngả mình xuống giường, mệt nhừ người sau một ngày dài nên dễ dàng chìm vào giấc ngủ sâu không mộng mị.
Một hôm đang ở cơ quan tôi nhận được cuộc điện thoại của bác giúp việc, nói phải về ngay ba tôi lên cơn tăng huyết áp đang nằm cấp cứu trong bệnh viện. Tôi lao đi trong sự hoang mang, sợ hãi giống như ngày tim mẹ ngừng đập trong bệnh viện. Những phút giây ngắn ngủi ấy tôi đã kịp nhận ra mình là một đứa con tồi, đã rất lâu rồi tôi không ngồi lại bên cha để lắng nghe ông nói.
Tôi không biết cha nghĩ gì, muốn gì và cảm thấy thế nào với từng ngày qua khi không có mẹ và các con thì mỗi đứa một nơi. Từ lâu tôi không biết cha mình làm gì trong một ngày dài đằng đẵng, thậm chí khi trở về nhà tôi chỉ kịp hỏi bác giúp việc xem cha có khỏe không, có ăn được cơm không? Tôi lao đi, đau đớn và hụt hẫng như thể biết mình đang sắp mất đi một điều thiêng liêng nhất...
Ơn trời cha đã không sao. Nhưng đêm đó, khi tỉnh dậy nhìn thấy tôi đang ngồi bên cạnh, cha đã khóc. Giọt nước mắt của cha cứa vào tâm can tôi nỗi day dứt vô bờ.
Những ngày sau đó tôi xin nghỉ việc cơ quan một tuần ở nhà cơm nước chăm cha.