Teya Salat
Bắt ma

Bắt ma

Tác giả: Sưu Tầm

Bắt ma

(truyenngan. com. vn - kinh dị số 1)


- Sư thầy cũng tin có ma quỷ? - cụ Bảy hỏi giọng chắc nịch.


- Có chứ, hề là người đều có phần hồn phần xác, khi chết đi chỉ còn phần hồn. Thường thì hồn sẽ sang đầu thai làm kiếp khác, nếu không thì có chuyện gì khúc mắc phần hồn mới luẩn quẩn như vậy.


***


1. Cuộc gặp sáng đầu năm


Sáng mồng một Tết, vạn vật vẫn còn chìm đắm trong sương đêm. Giưã khoảnh khắc tinh khôi của ngày đầu năm mới, sư Thiện Pháp muốn đứng một mình, nhắm mắt hít lấy cái mật ngot của cuộc sống, uống lấy cái tinh túy của sương đêm. Sư như nghe được tiếng trở mình của gió qua lá cây, tiếng nỉ non của cụ già hát xẩm lẩn khuất ở ngoài gốc cây Gạo vọng lại lúc xa lúc gần.


Ngày đầu năm, ai cũng mong khởi sự thật an lành, mọi việc đều hanh thông thuận lợi, chẳng ai muốn rước điềm xui, điềm rủi vào mình. Nhưng phàm là con người ở đời, có gặp họa mới thấy cái may mắn ngắn chẳng tày gang, có đạt được niềm vui sau họa mới biết quý, biết giữ gìn. Nhưng mà ít ai nhận ra được điều đó, ai cũng dùng mọi cách để đạt được niềm vui, để thỏa mãn cái nhu cầu của bản thân. Đó là điều mà Phật đã răn dạy từ lâu, trăn trở từ lâu.


Nén tiếng thở dài, không muốn phá vỡ cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái của ngày đầu năm, sư Thiện Pháp khua từng tiếng chổi thật nhẹ, gom từng chiếc lá về góc sân, châm một mồi lửa. Bập bùng cháy một hồi, đám lá chỉ còn lại dúm tro trên nền đất xám xịt, mọi thứ rốt cuộc cũng quay về cát bụi mà thôi.


Bắt ma


Nhấm ngụm nước chè ngọt chát, sư gióng ba hồi chuông rồi tiến ra đại điện vãn cảnh chùa. Người đi chùa lễ Phật cũng chỉ lác đác, ai cũng rầm rì khấn vái, xì xụp cúi lạy, chắc chẳng có gì hơn ngoài việc cầu cho một năm mới thuận lợi, vạn sự như ý, gia cảnh toàn tài, sức khỏe đến nhanh. Trên đại điện ánh hào quang của Bổn sư thích ca sáng cả một vùng, một nụ cười nhẹ nhàng trên khuôn mặt người, thấy thật ấm, thật an nhiên.


Sư Thiện Pháp trông thấy một cô gái mặc bộ bà ba, cổ đeo chiếc dây chuyền có hình Quan Âm lấp lánh, nãy giờ đứng trước tượng Thích ca rất lâu, mắt không hề chớp, cũng chẳng quỳ lạy khấn vái như những Phật tử ở kia. Sư thấy lạ, giữa người thiếu nữ và Đức Phật có cuộc trò chuyện không lời nào chăng?


Bất chợt, cô gái chắp tay vái một lạy rồi tách khỏi đoàn người, tiến thẳng vào khu nhà vườn sau đại điện. Dặn dò các đệ tử vài điều, sư Thiện Pháp lui ra sau phía sau, kiếm tìm cô gái. Sư lắng tai nghe một hồi, nhận thấy có tiếng khóc ở phía gốc Si đằng trước, giữa khung cảnh thanh vắng, tiếng khóc nổi lên nghe ai oán não nùng, sư Thiện Pháp chong đèn tiến về phía trước.


- Người ta nói có chuyện buồn đến mấy thì ngày đầu năm cũng nên nén những giọt nước mắt. Ắt hẳn thí chủ phải có chuyện gì rất buồn? - sư Thiện Pháp cất tiếng hỏi khiến cô gái giật mình quay lại.


- Mô phật, thưa bạch thầy, con có gì mạo phạm đến nhà chùa mong bạch thầy rộng lượng xá cho! - cô gái nói đứt quãng, vẫn còn vẻ sợ sệt như thường.


Sư Thiện Pháp cười lớn, có cảm nhận như mái ngói rêu mốc trên chái bếp cũng rung theo tiếng cười của sư:


- Nhà Chùa luôn mở cửa từ bi với mọi chúng sanh, nếu thí chủ thấy khóc mà nhẹ lòng hơn, tĩnh tâm hơn thì không có lỗi gì.


- Bạch thầy không hỏi con tại sao lại ngồi khóc ở nơi này sao?


- Vạn vật đều có căn nguyên, nếu thí chủ muốn giãi bày, ắt hẳn thí chủ sẽ lên tiếng. Đâu cần bổn tọa mở lời!


Tiếng sư Thiện Pháp nhẹ nhàng, lúc trầm lúc bổng khiến cô gái vẫn còn chút e sợ.


Lau vội giọt nước mắt, cô cúi chào sư rồi quay lưng ra cổng, mới thoáng đó đã không thấy nữa.


Sư Thiện Pháp tắt đèn, ngẩng người nhìn theo rồi lắc đầu, dường như nữ thí chủ này có điều gì u uất đến cực đỉnh thì khóe mắt mới ánh lên cách nhìn như vậy. Phàm là cớ gì thì mang một nỗi tâm sự như vậy trong lòng cũng không hay.


Bát giác sư thấy lạnh run người, ngày đầu năm đâu có những đợt gió chướng như vậy. Một cảm giác lạ lùng xâm chiếm tâm trí của sư, sư Thiện Pháp mơ hồ lúc ở gần cô gái cũng cảm nhận được cái lạnh đến u uất này.


...


2. Khúc sông làng Bích


Buổi chiều nghỉ chân ở quán nước dưới gốc cây gạo, sư Thiện Pháp uống vội ngụm nước chè rồi trầm ngâm nghe tiếng xẩm của cụ Bảy. Những người lang thang, dáng dấp lữ khách thường giỏi một ngón nghề gì đấy. Cụ Bảy cũng thế, không ai biết cụ đến làng này từ bao giờ, chỉ biết cụ đã ngồi hát xẩm và gắng với con đò của mình lâu lắm rồi, đặc biệt ngón đàn và cái giọng trầm đục nỉ non của cụ thì ai nghe cũng chờn. Tiếng hát xẩm của cụ Bảy khiến sư Thiện Pháp bất động hồi lâu, cảm giác những dây thần kinh như thắt lại, từng lông tơ dựng đứng cả lên.


Cụ Bảy ngừng lại ngước đôi mắt về phía sư bật cười:


- Sư thầy đi hóa duyên về đó hử?


- Bẩm cụ thưa vâng, tiếng đàn cụ hay quá!


- Sư thầy không biết, trong đàn cũng có hồn phách, mình vuốt ve cưng nựng nó thì nó mới chịu cho mình cái tiếng nó trong thế. Cây đàn này gắng với tôi lâu lắm rồi, nhiều khi nó là con, là bạn, là tri kỉ từ hồi nào tôi chẳng biết nữa.


Sư Thiện Pháp gật gù, mời cụ chén nước chè rồi cả hai ngồi đàm đạo.


Bà Bổi ve vẩy cái quạt phá tan cuộc trò chuyện của hai người:


- Độ rày có ai mời sư thầy đi tụng kinh, cúng quẩy gì không?


Sư Thiện Pháp đang dở chuyện, ngẩn người đáp lại:


- Không bà ạ, trong chùa nhà ai có đám hiếu hay có lễ lược gì đấy thì mời nhà chùa đi thôi. Những việc cúng quẩy, cúng tế chúng tôi không nhận.


Nhổ phịt ngụm trầu đỏ tươi như máu, bà Bổi đon đả:


- Thế hử, tôi là tôi hỏi thế thôi, bởi độ rày tôi nghe khúc sông dưới xóm Bích nhiều người đuối nước lắm, từ giêng đến giờ mới có ba tháng, vậy mà đã "đi" những bốn người rồi. Khúc sông ấy lâu nay vẫn tắm giặt bình thường, từ ngày đó đến giờ vắng tanh, trông càng u ám.


Đột nhiên bà Bổi quay sang cụ Bảy hỏi khẽ:


- Cụ hay chèo qua khúc sông ấy, thế có biết căn nguyên ấy làm sao không?


Cụ Bảy vẫn hướng đôi mắt trầm đục của mình ra xa, im lặng một hồi. Thế rồi trong cổ họng cụ từng chữ bật ra như có ai đang bóp nghẹn :


- GIEO NHÂN GÌ THÌ GẶT QUẢ ĐẤY


Cái quạt trên tay bà Bổi dừng hẳn, mấy người khách ngồi quanh cũng xúm hết cả lại, một người cất tiếng:


- Cụ nói thế là ý gì hả cụ?


- Tôi nói xàm đấy, mọi người đừng để ý, cái gì cũng có cái lý của nó, tôi đoán chắc có gì khúc mắc trong chuyện này nên nói bừa vậy thôi. Mọi người cứ nghỉ, tôi đi đây.


Xếp lại hộp đàn, cụ Bảy bỏ đi dưới ánh mắt ngơ ngác của mọi người. Đợi cụ đi khuất, bà Bổi chép miệng:


- Có căn nguyên gì thì cũng mong đừng có ai bỏ xác dưới đáy sông đó nữa. Tội nghiệp, lạnh lẽo lắm, cô đơn lắm.


Sư Thiện Pháp nãy giờ trầm ngâm. Dáng điệu và cả câu nói của cụ Bảy không phải bật ra một cách tự nhiên như vậy. Vốn dĩ xưa nay cụ kiệm lời và kĩ tính lắm, đâu dễ nói bừa ra một câu như vậy.


Trả tiền nước cho bà Bổi xong, sư giục hai chú tiểu theo phụ mình sửa soạn tay nải về chùa.


Thoáng chốc, bóng của ba sư đồ đã khuất sau rặng tre. Mặt trời sắp lặn quét một màu đỏ ối kéo dài đến tận khúc sông cuối làng Bích. Nhìn về hướng ấy bây giờ nom rợn hết cả người, tiếng mấy con vạc đi ăn đêm vọng lại càng khiến ai nhìn cũng chả dám nhìn lâu.


Bắt ma


3. Tiếng khóc ở dốc Miếu Đôi


Lão Trì đi thả vó ở mé sông từ chập tối, đó là thời điểm ưng ý nhất của lão, đố ai trông thấy lão đi thả vó ban ngày. Ra cái chòi ngoài bãi sông, lão Trì lầm lụi cất vó rồi thắp điện bằng cái mô tơ đem theo để nhử mồi. Rít điều thuốc lào cho ấm bụng, lão ngồi ngẩn ngơ ngó ra mặt nước loang loáng ở đằng xa.


Cái bụi tre ở rìa sông chẻ ra làm hai như chỏm tóc đứa con nít lên ba nom thật dị thường. Hôm nay trúng đêm rằm, trăng sáng vằng vặc chiếu xuống mặt sông thật đẹp. Lão Trì phê thuốc ngồi nhẩm nha mấy câu ả đào:


"Hiên thì thấp thoáng trăng tròn. . gió vàng hiu hắt như gương mặt sầu...niềm tâm sự thấp cao mọi lẽ. . tình cảnh này biết kể cùng ai"


Giọng lão Trì rền rĩ nghe câu được câu mất. Lão thẫn thờ nhìn trời, nhìn sông thấy cảnh như trong thơ Lý Bạch. Lão hồi nhỏ cũng đi học, rồi cái đói cái nghèo khiến lão bỏ ngang dẫu cho lão học cũng không đến nỗi tệ, lão cũng biết mấy bài bài thơ Đường, rồi thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ.... để giắt lưng đọc chơi. Lão văng tục:


- Mẹ kiếp, cái chốn tiên cảnh thế này mà tiên sư đứa nào kháo chuyện bậy bạ.


Từ độ chưa có câu chuyện mà mọi người bàn tán kia, khúc sông này buổi tối nhộn nhịp lắm. Ngoài lão Trì đi thả vó ra còn mấy đứa nhỏ đi soi ếch với chiếc đèn pin nhỏ xíu, chúng hay lên chòi lão chơi, ngồi nghe lão kể chuyện bên Tây bên Tàu, vậy mà nay vắng tiệt , đố có đứa nào bén mảng đến khúc sông này. Lão Trì đâm ra buồn thúi ruột, chả biết chuyện trò với ai. Ngẩm nga thêm tí nữa, lão ngủ sớm để khuya dậy kéo vó.


Cái tiết trời tháng năm nóng hừng hực thế mà giờ lạnh buốt, từng cơn gió cứ thốc vào mái chòi của lão Trì từng đợt từng đợt. Lão kéo chiếc chăn che kín chân rồi mà vẫn lạnh. Chửi đổng vài câu, lão lọ mọ dậy châm điếu thuốc ngồi ngáp ngắn ngáp dài. Trong bóng đêm mù mịt kia, điếu thuốc lão Trì đỏ rực, nhập nhòe như mấy con ma đuốc. Lão chả sợ bố con nhà ma nào, từ thuở cha sanh mẹ đẻ đến giờ, đi đêm đi hôm lão chả biết con ma nó hình thù ra làm sao, có đáng sợ như dân gian đồn đại không, mà nếu có chắc lão cũng hù cho nó chạy té khói. Nghĩ vậy, lão cười.


Bất chợt, lão nghe vẳng lại tiếng khóc từ phía dốc Miếu Đôi, đầu tiên là nghe loáng thoáng sau đó rõ dần rồi rít lên từng chặp nghe ai oán não nề. Hẳn như người khóc có chuyện gì buồn đến thảm thiết thì tiếng khóc mới thê lương như vậy. Lão Trì dỏng tai nghe, có tiếng phụ nữ rồi cả tiếng con nít nữa. Quái lạ, khuya vầy rồi ai còn dắt con đi chơi nữa chứ. Tiếng khóc vọng lại mỗi lúc một rõ, nghe rờn rợn.


Cho chiếc ghe tấp vào bờ, lão Trì tiến lại gần cái miếu dốc Đôi.