Lạc lối - Phần 2

Lạc lối - Phần 2

Tác giả: Sưu Tầm

Lạc lối - Phần 2

Vỡ


Giả sử, chỉ là giả sử thôi, bạn không còn nhớ gì về cội nguồn của mình, liệu bạn có can đảm tìm lại chúng hay không? Họa chăng bạn cũng sẽ thắc mắc bạn từng là ai? Một đại gia với cuộc sống sung túc hay chỉ là một kẻ lang thang vô định giữa những ngã tư đường?


***


Đôi khi, vào lúc bình mình còn chưa xòe cánh quạt cam hồng sau những rặng núi, tôi đứng tựa vào ô cửa và chăm chú ngắm nhìn những giọt sương đọng trên tấm kính trong suốt. Khoảnh khắc ấy, tôi dường như bước ra khỏi ranh giới của sự sống, tôi thấy cơ thể mình nhẹ tênh, thậm chí tôi sợ một ngọn gió nhẹ cũng có thể thổi tôi bay mất mãi mãi. Tôi có bạn bè không? Có gia đình không? Hay tôi được sinh ra từ những làn sương mỏng manh dễ dàng tan tiến kia? Tôi hạnh phúc với hiện tại, có thể nói là như vậy. Dù chẳng còn chút ý niệm nào về bản thân, nhưng tận sâu trong lòng, tôi vẫn muốn tìm lại một điều gì đó, điều duy nhất thôi thúc tôi quay đầu nhìn về. Mọi vật hiện hữu trên thế gian vẫn tuân theo quy luật vĩnh hằng của nó, dòng người vẫn trôi, và họ vẫn nhìn tôi như thể tôi được kết tinh từ pha lê trong suốt. Lẽ nào tôi lập dị và khác biệt so với họ ư? Người đời thường bảo ký ức là thứ không thể chết. Phải, xung quanh tôi ai ai cũng có kho báu ấy trong tâm trí, chỉ riêng tôi là đã lỡ lạc mất "một người đã từng là tôi". Điều được cho là bất tử của con người mà tôi cũng chẳng còn. Vậy, tôi là gì đây?


Lạc lối - Phần 2


Mike – một cựu y tá - là người đàn ông đã cho tôi cuộc đời mới lẫn một cái tên mới. Sống dưới cái tên Jack, nhiều lần tôi cảm thấy thật sự hạnh phúc đến mức tôi không buồn tò mò về quá khứ của mình. Có lẽ, trong những cơn ác mộng đêm khuya, chiếc bóng của hoài niệm vẫn thường rỉ tai rằng tôi của ngày xưa chỉ là một ảo ảnh vất vưỡng trên phố; ngập chìm trong những ngày tháng đen tối vì bị nỗi chán chường ăn mòn tâm hồn. Tuy vậy, thỉnh thoảng, tôi lại thoáng nghe tiếng ai đó gọi tôi bằng một cái tên lạ lẫm. Đó là hậu quả của vụ tai nạn đã khiến tôi mất trí nhớ, hay ở quãng đời trước, tôi cũng sở hữu năng lực siêu nhiên này? Tôi không biết, chỉ là, rất khó để giải thích bằng lời, nhưng giọng nói siêu thực ấy luôn khiến tôi muốn "quay về", mặc dù tôi chẳng biết phải bắt đầu từ nơi đâu. Tôi sử dụng bản đồ và la bàn rất khá, nhưng trên đời làm gì tồn tại thứ gọi là "La Bàn Định Vị Ảo Ảnh".


Tôi đang làm việc tại cửa hiệu cho thuê sách cũ, và là nhân viên duy nhất của Mike. Ông chủ của tôi rất hay cười, mặc dù nụ cười của ông luôn thoáng chút lạc lõng. Trong một đêm ngập men rượu, ông thú nhận rằng ngày xưa ông biết rõ tình yêu hơn ai hết, và cũng rõ hơn ai hết nỗi đau của nó. Đôi mắt nhoà nước của ông khiến tôi hiểu đó không đơn thuần như nỗi buồn của những đứa trẻ mới lớn than thở vì sự chia tay với mối tình mà chúng cho là tình yêu của đời chúng. Nhìn ông, tôi bất giác cũng khao khát có được một tình yêu sâu sắc, nhưng rồi nó lại làm tôi sợ hãi. Yêu đơn phương bao giờ cũng giống như việc thắp lửa cho một ngọn nến vậy. Nhìn nó cháy dần, cháy dần trong đau đớn, rồi từng vệt sáp khô cằn sẽ bám chặt xuống nền gạch mãi mãi.


Người đàn ông này nhân hậu hơn tất cả những người tôi từng biết - tôi dám cá luôn ở cuộc đời trước của mình. Gần 7 năm về trước, tôi khổ sở tỉnh dậy trên chiếc giường của Mike; đầu quấn chặt băng và cái mùi thuốc đỏ, thuốc tê khiếp đảm đó như vẫn còn phảng phất quanh cánh mũi tôi. Mike giải thích rằng đã trông thấy tôi bất tỉnh trên ven sông; thân ngập một nửa trong làn nước lạnh ngắt. Sau khi nhận ra tôi chẳng còn nhớ gì, ông liền gợi ý về việc nương lại hiệu sách với ông, thậm chí còn đặt cho tôi một cái tên mới. Ông gọi tôi là Jack, tôi không chắc mình thích cái tên ấy, nhưng ông bảo rằng đó là tên của một anh chàng lãng tử trong bộ phim yêu thích nhất của ông. Trông ông lúc ấy có vẻ khá hồ hởi, rồi sau đó tôi mới biết ông sống đơn độc không gia đình, như một con thuyền rách rưới tang hoang lênh đênh vô định giữa dòng đại dương. Tôi hiểu vì sao ông tỏ ra mến tôi đến thế. Khi biết trong người tôi chẳng còn giấy tờ tuỳ thân hay bóp ví gì để chứng minh tôi từng tồn tại, Mike suy rằng nước sông đã cuốn trôi nó, và cuốn luôn cả ký ức của tôi. Những lúc tôi từ chối lời đề nghị làm giấy tờ tuỳ thân mới, Mike đều hỏi tôi phải chăng tôi luôn mong tìm lại bản thể cũ của mình. Tôi không rõ, chỉ là tôi chưa sẵn sàng cho việc đấy.


Another World là tên cửa hiệu của chúng tôi, và tôi thích cái tên này hơn Jack khá nhiều. Suốt ngần ấy năm được bao quanh bởi những cuốn sách, tôi nhận ra mình yêu chúng khôn xiết. Cuộc sống tôi ngập chìm trong chất thi vị và phảng phất cái mùi của những trang giấy cũ xưa, vô vàng hạt bụi li ti khiêu vũ trong ánh nắng tràn vào từ các cửa sổ; lóa lên như những viên pha lê, và tôi thích ngắm nhất khung cảnh đó. Các tủ sách hộ pháp kê đều bốn bức từng đã tróc vôi, sách được xếp theo từng thể loại: tình cảm, kinh điển, phiêu lưu, viễn tưởng, tâm lý hay thuộc nhà văn Mỹ và Pháp. Công việc của tôi là giúp khách lấy quyển sách quá cao hay lau bụi cho những quyển không ai động tới, và tôi tự hỏi chúng có bao giờ cảm thấy tủi thân hay không. Khi nhiều người bị thu hút bởi thời đại công nghệ thông tin, hiệu sách hoài cổ này gần như trở thành chốn hẻo lánh. Tuy vậy, vẫn xuất hiện vài người vô cùng đặc biệt đến nỗi họ khiến tôi thao thức mỗi đêm. Họ, Mike và tôi là những người nương tựa lẫn nhau ở một thế giới khác.


Lạc lối - Phần 2


Noah là cái tên tôi gọi thằng bé hay cầm đàn guitar mà thở nên những giai điệu nao lòng. Thằng bé không có tên, hay chính xác là nó không chịu nói với tôi; mà thật ra nó chẳng bao giờ hé môi nói lời gì cả. Tự ti vì vết sẹo dài trên má, nó luôn câm lặng ngắm nhìn dòng người qua đường bằng đôi mắt trưởng thành một cách kỳ lạ, đôi khi, tôi ngỡ thằng bé còn lớn hơn tôi vài tuổi. Tôi từng đọc một cuốn sách nói về một cậu bé bị nhốt trong hang động tách biệt với ánh sáng mặt trời, và chính vì vậy mà cậu cơ thể cậu không thể phát triển, mặc dù tâm hồn đã là một người trưởng thành. Cậu bé đó tên Noah. Nó luôn cau mày khó chịu khi tôi gọi nó như vậy. "Anh cũng không thích cái tên Jack lắm đâu.", khi tôi thốt nên câu nói ấy, đó cũng là lần đầu tiên thằng bé chịu nhìn tôi một cách bình thường. Như thể so với những hình bóng sáng ngời xung quanh, tôi dần được nhuộm một màu đen hòa hợp với nó. Tuy nhiên, thằng bé vẫn rất kiệm lời với tôi. Noah gầy guộc, đen nhẻm với quả đầu xoăn luôn vác đàn guitar lang thang khắp nơi để kiếm vài đồng xu lẻ. Hôm nào may mắn không bị bọn du côn trấn lột, nó có thể tự thưởng mình chiếc bánh chocolate thơm phức từ tiệm của bà béo Katty. Nhưng sự may mắn sao quá xa xỉ đối với thằng bé. Khi tình cờ trông thấy Noah ngồi ôm chiếc đàn trên phố, tôi đều mang cảm giác, dù rất mơ hồ, rằng thằng bé đang tìm kiếm hay chờ đợi một ai đó. Lần đầu đến quán, Noah cứ đứng trước tủ sách, bối rối, rụt rè chạm tay vào gáy sách rồi thất thểu bỏ ra ngoài. Sau đó Mike bảo với tôi thằng bé từng bỏ trốn khỏi viện mồ côi, và nó không biết chữ.


Đôi mắt Noah rất buồn, chất chứa vô vàn nỗi lòng đến mức nó không biết phải bộc lộ như thế nào nên đành im lặng, đành tự nhốt mình trong thế giới cô độc của chính thằng bé. Nhưng, đôi mắt ấy dần có sức sống hơn khi Noah bắt đầu làm quen với Thomas - một ông lão mù loà đã từng là thầy giáo. Ông đề nghị dạy chữ cho thằng bé như thể muốn hồi tưởng lại quá khứ huy hoàng, và Noah đồng ý ngay tức khắc. Có lẽ, thằng bé cảm thấy an toàn khi vết sẹo trên má là vô hình đối với Thomas. Người thầy này thường xuyên lui đến Another World, và bất chấp việc ánh sáng bị tước đoạt, ông vẫn mở từng trang sách ra mà vuốt ve mặt giấy khô ráp; bên cạnh là quyển sách chữ nổi dành cho người khiếm thị. "Khi mất đi một trong những quyền lợi để định hình vạn vật, con người ta luôn khao khát được cảm nhận tường tận mọi thứ", ông bảo thế khi tôi tò mò nhìn ông trong im lặng. Cái tôi thường để ý ở Thomas là ông luôn nở nụ cười cay đắng khi nói về quá khứ, ông nhắc lại những màu sắc, những trang sách màu cafe, từng con chữ nghệch ngoạc của học trò, những đôi mắt trẻ thơ đầy sự tin tưởng mà ông biết sẽ không còn nữa khi bị mất đi ánh sáng. Sau đó, ông lại mơ màng kể về cảnh hoàng hôn, cảnh ngã tư đông đúc hay những kiến trúc độc đáo từ nhiều năm trước như thể ông sợ nó sẽ chạy trốn khỏi hoài niệm của ông. Tôi khẽ tặc lưỡi, bọn trẻ thời ấy quan niệm mù loà đồng nghĩa với một vốn kiến thức nông cạn, dù vậy, chúng đâu biết rằng trên đời vẫn tồn tại khối người sáng mắt nhưng lại mù tịt về mọi thứ.


Khi Noah rời đi cho cuộc du hành với đàn guitar trên phố, tôi thường ngồi rất lâu để trò chuyện với Thomas, và tôi nhận ra ông không phải người mù loà mà dường như biết tất cả. Ông có một chiếc đồng hồ bạc mất cả kim giờ lẫn kim phút, và trong một lần tò mò xem xét nó, ông đã tặng chiếc đồng hồ khiếm khuyết ấy cho tôi.


- Nó hợp với cậu hơn ta đấy.


- Ông biết chiếc đồng hồ đã hỏng rồi chứ? Ý cháu là chẳng còn cây kim nào cả.


- Ừ, bởi vậy ta mới nói nó hợp với cậu.


Tôi im lặng. Phải, tôi chẳng khác nào chiếc đồng hồ mất kim để xác định thời gian, hay mọi thứ.


- Chàng trai – ông điềm đạm nói – cậu từng nghe câu "cuộc sống càng trống rỗng thì càng nặng nề" chưa? Hãy làm gì để lấp đầy khoảng trống trong lòng cậu, và thôi thở dài trước mặt ta đi.


Kể từ đó, tôi đều tránh ngồi đối diện Thomas mỗi khi mang tâm trạng nặng nề.


Sau cùng, người mà tôi thấy thú vị nhất là một gã rocker mang biệt danh Blue. Gã mê màu xanh đến mức gã không bao giờ tiết lộ tên thật của mình, để mọi người ai ai cũng phải gọi gã bằng cái màu của biển và bầu trời ấy. Tôi nghĩ gã hơi điên. Người ta kể rằng có hôm phát hiện gã lặn ngụp dưới làn nước biển gần năm phút, rồi khi được kéo lên, gã chỉ thì thào trong nụ cười rạng rỡ: "Thật kì diệu". Chắc hẳn, trong đời bạn đã từng gặp người có tâm hồn và vẻ ngoài gần như tách biệt, và Blue là kiểu người như thế. Gã luôn vận áo đen, quần jean rách kèm giày bốt, tóc bờm ngựa ánh màu xanh dương, xỏ khuyên ở mũi và môi, tay trái gã xăm hình cánh dơi và các ngón tay hai bên đều xăm ký tự lần lượt là B L U E. Trông gã vừa ngầu vừa đáng sợ. Thú thật, lần đầu gã vác đàn guitar điện bước hùng dũng vào cửa hiệu, suýt chút nữa tôi đã gọi cảnh sát. Tuy nhiên, gã lại tiến đến tủ sách Kinh điển; lấy ra cuốn On The Road rồi lặng lẽ ngồi xuống dãy bàn. Tôi len lén quan sát Blue; lòng vẫn chưa hết ngạc nhiên, và nhận ra gã thật sự đọc sách chứ không hề ra vẻ một người nho nhã. Chập tối, gã gấp quyển sách lại rồi thở dài, và tôi bất giác cũng thở dài theo gã – triệu chứng của những người vừa đắm mình trong một nước Mỹ tan vỡ của On The Road. Trong đôi mắt sáng màu của Blue, ẩn hiện một màu đen tận cùng của sự tuyệt vọng. Tôi đoán gã hẳn có nội tâm rất phức tạp.


Khoảng hai ngày sau, Blue chủ động đến bắt chuyện với tôi. Gã nói chuyện rất có duyên, hài hước và tôi để ý gã hay đập tay vào đùi mỗi khi phá lên cười giòn giã. Lúc cả hai trở nên thân thiết hơn, Blue mặc kệ tôi có muốn nghe hay không, gã cứ huyên thuyên về nhạc rock, về những kẻ coi thường tài năng mà cắt show diễn của gã, về màu xanh và mấy cuốn sách Kinh điển. "Tôi nghĩ các nhà văn đình đám thời xưa đã lấy đi hết sự tinh túy ở các cây bút hiện tại rồi. Cậu trông mấy cái tựa ở dãy sách hiện đại mà em, cái gì chứ? "Anh yêu em, vợ ngốc nghếch" cơ đấy! dễ thương làm sao!" Tôi cười ngặt nghẽo. Sau đó, tôi đưa cho gã cuốn Người trộm bóng của Marc Levy. "Ở thời kỳ nào cũng có vài nhà văn xuất chúng", tôi nói thế và gã cũng chịu mang quyển sách về nhà đọc. Qua hôm sau, tôi thấy gã lọ mọ trước tủ sách của các nhà văn Pháp. Thay đổi được một ai đó quả thật rất vui.


Ở Blue tưởng chừng có một chút gì đó hơi trẻ con, vô tư. Nhưng gã lại mang tâm hồn già cỗi và rất khó hiểu. Đó là vào một ngày mưa, khi những bong bóng nổi lên dưới mặt đường rồi lại vỡ ra; biến mất, tôi với gã đứng trước cửa hiệu để hút thuốc vì trong quán có Noah đang học chữ cùng Thomas.