Những buổi chiều ngang qua làng tôi
Những buổi chiều ngang qua làng tôi
Có lần tôi sang nhà bà Tùng mượn cái kìm nhỏ. Tôi hỏi: "Bà có kìm con không?". Bà cứ dỏng tai nghe mãi rồi đáp: "Già làm gì có con mà đi tìm". Tôi bực quá, hỏi đi hỏi lại mấy lần: "Bà có kìm con không? Kìm con?". Bà vẫn lắc đầu: "Con đâu mà tìm, tìm cũng chẳng được". Con Vịt cứ đứng bên sân nhà nó cười ha hả: "Đúng là một bà điếc và một thằng điên". Tôi tức quá chạy về, không kìm con hay tìm con gì sất.
Tôi rủ bọn trẻ chơi trò đám ma. Chúng nó nịnh con Vịt giả làm người chết. Tôi thích trí bày trò hăng hái. Thằng Điều vác tấm ván nhà nó ra, tôi bảo con Vịt nằm lên ấy, tôi mới thằng Mít khiêng, thằng Điều hái lá găng làm tiền giấy vứt khắp nơi, những đứa còn lại cầm gậy cầm rá làm kèn với trống. Cả lũ chúng tôi giả vờ khóc lóc ầm ĩ, ò í e rộn ràng một góc làng. Tôi nhìn con Vịt nằm im thin thít trên ván, mắt nhắm nghiền, hai tay đặt trên ngực, mà buồn cười khủng khiếp. Cả bọn vừa giả vờ khóc vừa cười khanh khách.
Ông Giáp đi qua nhìn thấy, chửi tôi không tiếc lời. Tôi đứng im nghe. Ông quát: "Con Vịt về ngay, đầu mày có não không mà mày chơi mấy trò ngu thế?". Đợi ông đi, chúng tôi rủ nó chơi tiếp, nó lắc đầu: "Thôi, sợ ông Sáp". Thằng Mít nhà tôi cười rũ ra đất, con gái lớn thế rồi mà còn nói ngọng. Thằng Điều bỏ tấm ván đi về, vừa đi vừa phụng phịu: "Người già cái đếch gì cũng cấm".
Tôi cũng vứt cái gậy vừa giả làm kèn đám ma xuống đất. Chán nản leo lên núi, ngồi phệt xuống đất, nhìn xuống những cánh đồng lúa trải dài như một dải lụa màu xanh. Nhìn con đường mòn đi từ thị xã về làng tôi.
Con đường heo hút bóng người.
Hết trò chơi, tôi lại rủ lũ trẻ con ra ngòi mò sắt vụn đem đi bán. Người lớn vẫn thường cấm chúng tôi chơi ở ngòi vì nguy hiểm. Tôi mặc kệ. Dưới dòng nước kia có bao nhiêu thứ hay ho. Chúng tôi thi nhau mò, đổi được khối kẹo kéo. Con Vịt lúc nào cũng mò mẫm sau tôi làm tôi phát cáu.
Thằng Mít nhà tôi lần được một cục sắt lạ, bị dấu sâu dưới lòng nước, một nửa mắc trong bùn. Tôi hò cả bọn tụ tập lại kéo lên. Cái cục sắt nhỏ, chỉ nhỉnh hơn bàn tay tôi một tí. Tôi thọc tay xuống bùn cố móc. Cả lũ chăm chú nhìn tôi.
Khi thọc được cục sắt lên, tự nhiên sống lưng tôi lạnh toát. Nhanh như cắt, tôi vứt nó xuống, hét: "Mìn chúng mày ạ!". Mấy đứa chúng tôi dẫm lên chân nhau mà chạy. Chẳng được mấy bước thì mìn nổ. Tiếng nổ khủng khiếp ấy cứ găm vào đầu tôi mãi. Tôi ngã chúi mặt xuống đất. Mấy thằng bạn chạy trước tôi cũng ngã dập trán.
Con Vịt không chạy kịp, bị nổ tan xác. Một mảnh tay nó văng vào mặt tôi. Dù còn sống, lũ trẻ chúng tôi thằng nào cũng gào khóc.
Tôi không dám ở lại nhìn người ta nhặt xác con Vịt. Ông ngoại cõng tôi về nhà. Tôi cứ gục vào lưng ông khóc. Ông tôi không nói gì. Đi chậm chậm.
Hôm sau, chúng tôi đi đám ma. Không phải trò chơi. Mà đám ma thật. Con Vịt nằm trong quan tài, tiếng kèn ò í e khắp làng, tiền giấy xanh xanh đỏ đỏ vương vãi khắp nơi, lúc nó ra đồng có bốn người khiêng. Ông tôi, ông thằng Định, ông thằng Điều, và ông con Vịt. Bố mẹ nó đi xuất khẩu lao động không về kịp. Người già đi đằng trước, trẻ con đi đằng sau. Tôi khóc không thành tiếng, để mặc nước mắt nước mũi chảy rề rề trên mặt không thèm lau.
Hôm qua, con bé vẫn đòi sau này lớn lấy tôi làm chồng.
Tôi ốm!
Không biết bao nhiêu đêm tôi sốt cao, lên cơn co giật.
Tôi nằm lâu đến nỗi cảm giác da lưng dính cả vào chiếu. Bà tôi bữa nào cũng cố gắng cậy miệng đổ cho tôi ít cháo. Đắng ngắt. Thằng Mít lúc nào cũng khóc. Mỗi lần mở mắt là tôi thấy mặt mũi nó lem nhem. Bạn bè, thầy giáo đến thăm, tôi không dậy được, cũng chẳng nói chẳng chào được. Những đêm lơ mơ tỉnh, tôi nhìn thấy ông bà tôi, bố mẹ tôi, anh tôi, thằng Mít, cả hàng xóm láng giềng, xúm đầu vào hỏi han. Tôi sướng tê dại cả người.
Nhưng chẳng phải, tôi vẫn nghe thấy tiếng bà tôi khóc lóc, than thở: "Con nó ốm sắp chết thế này mà nó vẫn chưa chịu về có khổ thân tôi không, ôi ông Giời ơi!". Tôi nuốt nước mắt vào trong. Hóa ra bố mẹ tôi vẫn chưa về.
Những ngày tiếp theo tôi không ăn được gì. Người quắt queo như củi khô. Ông tôi gọi mấy người sang lấy gỗ mít ngâm dưới ao lên đóng áo quan cho tôi. Bà tôi vật ra khóc ở ngoài hiên, làm hàng xóm tưởng tôi đi rồi, chạy sang đỡ bà tôi vào nhà.
Đêm hôm ấy tôi ngủ lịm đi, chẳng còn biết gì nữa. Tôi nhìn thấy bố nhễ nhại mồ hôi, vai trần dưới nắng, bê những bao xi măng từ xe vào công trường. Lưng bố cứ oằn mãi xuống. Tôi nhìn thấy mẹ, bón từng thìa cháo cho một đứa nhỏ xa lạ. Tôi nhìn thấy anh, ngày qua ngày ngồi lầm lũi ở xưởng mộc, đục đục đẽo đẽo. Tôi quay về, quay về làng tôi, quay về nhà tôi, gục vào lòng bà, hít hà mùi trầu thơm, thọc tay vào áo bà, vân vê cái núm trong áo, ngực mẹ tôi thì đầy, ngực bà nhão hết cả rồi.
Sáng sớm hôm sau tôi tỉnh dậy. Tôi với tay nắm vào song cửa sổ, ngồi dậy, dựa lưng vào tường thở hổn hển vì mệt. Tôi gọi bà. Bà tôi hoảng hốt chạy lại. Tôi nhìn bà, tôi cười, tôi đòi ăn cơm.
***
Thằng Mít chạy khắp làng khoe tôi khỏi ốm, chả ai tin. Tôi cũng chẳng tin mình trải qua được trận ốm thập tử nhất sinh này. Nhưng tôi nào có quan tâm. Tôi chỉ thấy buồn. Tôi có chết bố mẹ cũng có về nhìn tôi lần cuối đâu. Tôi chết làm gì cho khổ.
Thằng Mít dắt tay tôi ra đằng sau chuồng lợn, chỉ cho tôi cái áo quan đóng bằng gỗ mít, bảo: "Anh đừng chết, anh mà chết là người ta đặt anh vào hộp này đem đi chôn như con Vịt đấy".
Tôi khóc!
Tôi vừa khóc vừa chạy, leo lên đỉnh núi Vòng, nhìn xuống cánh đồng lúa trải dài như một dải lụa màu xanh. Nhìn con đường mòn đi từ thị xã về làng tôi.