Ông Tóng bản Rôn

Ông Tóng bản Rôn

Tác giả: Sưu Tầm

Ông Tóng bản Rôn

Nhưng có lẽ hai bác ấy cũng chẳng có thời giờ mà bận tâm đến một tương lai xa như vậy. Trước nay họ vẫn thường chỉ cần lo được đến đâu hay đến đấy.


Những tưởng các cô con gái đi lấy chồng, vợ chồng ông Tóng sẽ đỡ khổ hơn vì chỉ còn lo có hai miệng ăn nhưng hai bác ấy vẫn nghèo khổ như thế. Gần sáu mươi mà người ta vẫn thấy ông Tóng đi làm thuê bốc vác cho chủ các xe chở hàng vào những ngày thu hoạch nông sản. Còn bà Tóng thì vẫn suốt ngày đi đào dế, xúc tôm tép ngoài suối, đi rừng bắt ốc sên, hái rau rừng, đào củ mài, củ khoai rừng để mà ăn qua ngày. Những nhà khác trong bản người ta đã tự trồng được cả rau rừng, chăn nuôi được từ con cá, con gà, vịt... nên chẳng cần phải lên rừng, xuống suối mà kiếm thức ăn nữa. Chợ búa lúc ấy cũng đã gần bản hơn, nhà nào cũng có xe máy cả nên người ta cũng hay xuống chợ mua sắm, từ khoảng chục năm trở lại đây người bản Rôn đã yêu cái chợ hơn cái rừng của họ rồi. Với lại giờ rừng cũng chẳng còn gì để họ tìm kiếm, nó đang càng ngày càng bị thu hẹp đi, rau rừng và thú rừng cũng chẳng còn mấy nữa. Có vẻ như chỉ có ông bà Tóng là luôn buồn ra mặt trước tình trạng ấy, vì không có rừng họ chẳng biết bám víu vào đâu nữa.


Năm chị con gái nhà bác Tóng lần lượt tên là Tóng, Bôm, Mỷ, Diển, Khiêng. Các chị ấy không xinh nhưng cũng chẳng đến nỗi xấu xí, chỉ có điều chắc do được học hành ít nên họ cũng có vẻ khờ khạo, ngờ nghệch như mẹ của họ vậy. Dân bản thường nói với nhau rằng, những cô con gái nhà ông bà Tóng đi lấy được chồng cũng là cái may mắn lắm, cũng phải tốt số lắm mới lấy được chồng. Vì thường ở trong vùng những cô gái như họ (tức là chẳng thông minh, chẳng xinh xắn, chẳng khéo léo, cha mẹ chẳng có của...) rất khó lấy chồng. Tuy vậy, hầu như các chị ấy cũng toàn đi lấy chồng ở các bản xa cả, cứ vài tháng mới thấy về thăm bố mẹ đẻ một lần, có khi mỗi năm về vài lần. Chắc bác Tóng cũng chẳng mấy mong đợi các cô con gái về thăm.Vì mỗi lần có con cháu về chơi là nhà ông bà lại có vẻ trống rỗng đi trông thấy. Những gì mang được các cô con gái đều mang đi hết cả, từ củ tỏi cho đến đàn gà mới nở. Cả năm cô con gái của bác Tóng sau khi lấy chồng cũng đều rơi vào hoàn cảnh khó khăn cả, gia đình chồng của các chị cũng nghèo. Chẳng ai khá hơn ai, mẹ tôi bảo những lúc các chị ấy từ xa đến thăm bố mẹ đẻ, khi ra về không mang được gì đi theo thì thấy chẳng bõ công nên có gì lấy được là các chị ấy lấy đi hết. Có năm gần đến Tết, vợ chồng bác Tóng đi rừng cắt được khoảng chục bó lá dong định đem xuống chợ bán lấy tiền ít tiền. Chưa kịp mang đi thì các con gái, con rể xuống "chúc Tết" và mỗi nhà đều xin một bó lá về gói bánh thế là cũng hết veo...


Tôi lại nhớ đến hình ảnh của bác Tóng sáng nay. Cái thân hình cao lớn, lực lưỡng có thể vác được cả bao tải ngô nặng đến năm mươi cân lên vai giờ đã gầy sọm đi nhiều. Chắc giờ để vác được bó củi nhỏ lên vai từ rừng về nhà khoảng năm cây số, bác ấy cũng phải vừa đi vừa dừng nghỉ lấy sức nhiều lần mới về đến nơi được. Những sợi bạc trên mái tóc đã thay thế gần hết những sợi tóc đen. Làn da ngăm ngăm đen của bác giờ đã xuất hiện thêm rất nhiều nếp nhăn làm cho khuôn mặt vốn hơi méo mó trở nên xấu xí lạ. Tuy vậy cái vẻ hơi chút láu cá vẫn hiện qua đôi mắt sáng quắc. Mẹ tôi kể bác Tóng mồ côi từ nhỏ, bên nhà vợ cũng nghèo khó, lúc lấy nhau hai vợ chồng chẳng có tài sản gì. Mấy mảnh nương đồi cũng là tự khai phá đất rừng mà có. Bác lại chẳng được học hành gì, cán bộ về phổ biến khoa học kỹ thuật cũng không tiếp thu được, nhà lại đông con nên cái nghèo cứ đeo bám ông Tóng bản Rôn mãi. Nếu không có sức khỏe cường tráng và sự láu cá thì chắc ông Tóng đã chẳng nuôi nổi vợ con và tồn tại được cho đến bây giờ. Đang chìm trong những suy nghĩ về bác hàng xóm tôi không để ý là gần nửa tiếng đồng hồ đã trôi qua và mẹ tôi đã từ dưới chợ đi về.


"Mua được thuốc rồi này, uống đi cho nó hết cái đau bụng." Mẹ tôi đưa thuốc cho và bảo. Uống thuốc xong tôi lại hỏi mẹ.


"Sao bác Tóng lại thành thầy thuốc rồi hả mẹ?"


Mẹ tôi cười rồi thở dài tỏ vẻ chán nản kể.


"À, đợt trước ông Tóng lên rừng hái được cây Nom Nom, chắc mày cũng không biết đó là cây gì đâu. Nó là cái cây người ta dùng để cho những bà mẹ mới đẻ không có sữa cho con bú ấy mà, nhưng mà nó bị hái hết từ đời nào rồi. Mấy chục năm chẳng ai nhìn thấy nó nữa thế mà ông Tóng lại tìm được trong cái rừng. Cái hồi ông ấy có cây thuốc ấy thì đúng dịp có người bản bên mới sinh con không có sữa, ông ấy mang thuốc bán cho họ. Người ta mừng lắm, cứ khen đấy khen để, bảo ông ấy là người có tài tìm thuốc quý này nọ. Sau đó lại có mấy người nhờ ông ấy đi tìm thuốc này thuốc nọ cho.Từ đó ông ấy trở thành thầy thuốc, chuyên đi tìm cây thuốc chữa bệnh cho người ta đấy. Người uống thuốc của ông ấy có người khỏi có người không, số người khỏi thì hiếm mà cũng chỉ là những bệnh thông thường thôi."


"Bác ấy cũng giỏi thật mà mẹ nhỉ?"


"Chẳng biết có phải giỏi không, nhiều lần có người nhờ ông ấy đi bốc thuốc hộ tao toàn thấy ông ấy sang vườn nhà mình xin nhặt nhạnh những cái cây cỏ linh tinh gì ấy. May không có cây nào gây độc thôi, chứ ông ấy cứ tiếp tục bốc thuốc kiểu đó thì sớm muộn cũng sẽ có người bệnh lại thêm bệnh."


"Thế mà hồi trưa mẹ còn định đi lấy thuốc chỗ bác ấy về cho con uống đấy". Tôi vặn lại mẹ.


"Tao nói đùa thôi mà."


Tôi định bụng sau khi khỏi đau sẽ sang nhà bác Tóng chơi xem sao, cũng đã vài năm rồi tôi không sang nhà ấy, chắc là từ cái đợt bác làm nhà mới. Chắc bác đã chẳng thể cất được ngôi nhà, mà chính bác cũng thừa nhận không biết sẽ ra sao nếu không có các chính sách xóa đói giảm nghèo và hỗ trợ của bản, của Nhà nước. Ở bản Rôn năm nào nhà bác Tóng cũng rơi vào diện hộ nghèo. Nhà bác cũng được hỗ trợ rất nhiều như không phải đóng tiền điện, được hỗ trợ gạo, hỗ trợ tiền làm nhà, Tết nhất cũng được biếu quà và tiền ăn Tết v.v. Dù thế cả chục năm rồi nhà bác Tóng vẫn không thoát được cái nghèo. Giờ hai vợ chồng già sống trong một căn nhà dạng cấp bốn nhỏ lợp ngói, tường gạch trát vữa trông kiên cố hơn ngôi nhà xưa kia nhiều. Đất quanh nhà đã bị bán gần hết, ông Tóng bán đất phần để lấy tiền trang trải nợ nần, phần để dùng chi tiêu những việc thường ngày. Dù chẳng mua sắm gì nhưng hàng tháng nhà bác cũng có việc đầy việc phải cần đến tiền. Đó là những đám cưới, lễ mừng nhà mới, lễ đặt tên cho trẻ, đám ma... của những người trong bản hoặc họ hàng. Người ta đã mời thì không thể không đi, đối với người ở bản Rôn đó là trách nhiệm, là tình làng nghĩa xóm. Tuy vậy cuộc sống hiện đại bây giờ khác ngày xưa nhiều. Trước kia đến tham gia những lễ như thế người ta chỉ mang theo quà tặng là đồ gia dụng hoặc là rượu, gạo và củi trong đám ma. Còn bây giờ hầu như người bản Rôn đi lễ gì cũng toàn dùng tiền cả.


Hình như cứ mỗi lần bác Tóng đi ăn cỗ bàn là dân bản lại có đầy chuyện để kể lể với nhau. Thực ra nếu không phải những ngày lễ to thì người ta chẳng bao giờ mời đến bác Tóng. Những đám cưới hay lễ mừng nhà mới là luôn phải mời cả bản đến dự nên những dịp đó dĩ nhiên bác Tóng cũng có mặt. Tiền mừng của cho những dịp này ở bản Rôn thực ra cũng chẳng nhiều như ở dưới xuôi. Những năm gần đây cũng có người mừng đến trăm nghìn nhưng đa số vẫn năm mươi, tám mươi nghìn. Riêng ông Tóng đi mừng thì cũng chỉ đến mười, mười lăm, hai mươi có khi nhiều thì ba mươi nghìn. Nhiều người cũng tỏ tỏ thông cảm cho bác Tóng vì nhà bác còn nghèo nhưng hầu như ai cũng bực mình vì sự bất cẩn thái quá và thiếu lịch sự của ông.Thứ nhất là bác Tóng không bao giờ chịu đổi những tờ tiền lẻ nhàu nát sang tiền chẵn hoặc những tờ tiền phẳng phiu hơn, cứ thế cầm một nắm tiền lẻ đủ màu đưa cho gia chủ. Thứ hai là chuyện ăn uống của bác đến là khó chịu, đi đến hết mâm này sang mâm khác rồi lại tự nhiên mò xuống bếp nhà người ta chẳng phải là để xem không...


Đến cuối chiều khi tình hình sức khỏe đỡ hẳn, tôi chuẩn bị sang nhà bác Tóng chơi. Trước khi đi mẹ tôi bảo xuống vườn cùng bà mà hái ít rau mang sang cho họ chứ không nên sang không. Cứ cách một hai ngày mẹ tôi lại biếu nhà bác Tóng ít rau củ vì không cho họ cũng sẽ sang xin. Vườn nhà tôi chung bờ rào đá với nhà các bác ấy. Đang cúi xuống hái rau thì nghe thấy tiếng nói cười hớn hở, tiếng trẻ con khóc ở bên nhà bác Tóng. Tôi đứng lên, đưa mắt nhìn qua hàng bờ rào đá được xếp cao gần hai mét ngăn cách giữa hai nhà thì thấy một trong số các con gái của bác Tóng đem theo cả chồng con đến, mẹ tôi thì thầm bảo:


"Là cái Khiêng đấy, trong số năm đứa con gái đi lấy chồng thì đứa đó là khổ nhất. Nó lấy người bản Kạn ở cách đây không xa lắm. Nghe nói nhà nó ở bản bên đấy cũng được công nhận hộ nghèo, được Nhà nước hỗ trợ nhiều nhưng chồng nó lười làm. Chắc dạo này nghe nói bố làm "thầy thuốc" với lại biết chắc hôm nay có hội bản, ông Tóng đi dự hội kiểu gì cũng thón được ít nhiều thịt thà như mọi năm nên lại kéo chồng con xuống thăm hỏi rồi cắt xén ấy mà..."


Nghe mẹ nói đến đấy mà tôi thoáng buồn, tôi buồn cho bác Tóng. Ngẫm một đời bác Tóng khổ cực thế cũng là vì các con gái. Nếu các chị ấy cùng chồng con biết làm kinh tế và tự lo được cho bản thân không đến vòi vĩnh bố mẹ mình nữa thì bác Tóng chắc chắn sẽ đỡ hẳn. Lát sau cũng thấy bác Tóng từ hội bản về.