Chiếc vé cuối cùng
Chiếc vé cuối cùng
Không phải là người đàn ông ngồi chòng chành trên bức tường kỷ niệm thơ dại. Nhưng làm sao có thể bé lại để vừa đủ một chuyến trở về?
***
Anh ngồi trên bến xe, tiếng chợ búa, tiếng hàng rông bắt đầu tràn ngập từng góc nhỏ bé nhất nơi phòng chờ mua vé. "Chú mua bánh mì nhé... Vâng, ăn sáng bằng bánh mì là yên tâm, vừa chắc dạ vừa vệ sinh". Cái bĩu môi dài thượt của nó ngay sau cái lắc đầu của anh. Con bé tóc đỏ như lông bò, loe ngoe cái đuôi gà như đang cố bơi mình ra để bưng thúng bánh mì kềnh càng. Lại thêm một thằng bé nữa: "Chú đánh răng không? Đây là nước muối, kem Close-up, bàn chải Oral B, một lần đánh chỉ hai ngàn đồng".
Lần này thì anh sửng sốt đến bàng hoàng. Một là vì trong tiềm thức cũng như ngay bây giờ đây, anh chưa hình dung lại có dịch vụ kỳ cục này, lại càng không bao giờ nghĩ sẽ cho một cái bàn chải ba vạ đầy vi trùng vào miệng mình. Hai là anh sửng sốt còn bởi thằng bé gợi cho tuổi thơ anh ở một nơi nào đó vừa xa lại vừa gần, thức giấc trở dậy. Thằng bé không đẹp, nước da màu đồng hun và đôi mắt sáng, báo trước với người đối diện một nét tinh anh. Dường như nó hiểu sự e ngại của anh: "Chú yên tâm. Bàn chải này chưa ai dùng. Mà nếu có dùng rồi cũng không sao, cháu đã luộc bằng nước sôi". Anh lại lắc đầu.
Chợt có tiếng loa thông báo, giờ bán vé đã bắt đầu. Anh vội đứng dậy làm thằng bé tối sầm mặt lại, quay đi. Chợt anh nghĩ, có thể thằng bé sẽ giúp được mình. Anh gọi: "Ê, nhóc, cho chú nhờ được không? Mua giúp chú cái vé, tiền đây, thừa sẽ là của cháu. Đưa đồ nghề đây chú giữ cho". Một thoáng tần ngần lướt qua nhanh trên khuôn mặt thằng bé "Chú mua đi đâu". Ừ lạ thật, đến giờ anh vẫn chưa dứt khoát. Đi đâu nhỉ? Liệu mình có đủ can đảm để đối diện với thời thơ ấu không?
"À mua cho chú vé đi Bắc Kạn". "Chú chắc chứ?" – Thằng bé nhướng mắt lên cố tỏ vẻ đĩnh đạc, hệt như người ta hỏi "câu hỏi hy vọng" trong chương trình "Đường lên đỉnh Olympia". "Ừ chắc".
Thằng bé chạy đi, lẩn nhanh vào đám hành khách đang chen lấn ở cửa bán vé. Cái lanh lợi ấy là cái lanh lợi của anh hai chục năm về trước.
Hai mươi năm! Quả là khi nhiễm thứ thuốc nhuộm màu của cuộc sống thì đứa trẻ khác đi nhiều lắm. Lớn hơn lên, hẳn rồi. Và cả những hạnh phúc chen lấn ngột ngạt với khổ đau ùa về. Ta cứ chờ ngày mai. Ngày mai ấy là cái gì? Thật xa cho một ngày mai sương khói màu hồng. Mà thật gần cho ngày vật lộn tảo tần cho cuộc sống, đắp đổi nợ nần, giật gấu vá vai. Cái thủa lanh lợi ấy của anh khép lại nơi thị xã nhỏ ấy. Cái thị xã buồn dìu dịu trong sương muối, thậm chí chưa có nổi một bến xe ô tô cho ra hồn nữa. Thơ ấu của anh được che bởi tà áo của mẹ, dịu dàng và lành sạch. Nói như người hàng phố thì anh có một gia đình lý tưởng, một gia sản khổng lồ. Có thể hình dung gia đình ấy sang cả và trưởng giả như trong tiểu thuyết chữ to của cánh thợ viết Sài Gòn.
Mẹ anh – người phụ nữ Tây với đôi mắt màu hạt dẻ, lúc nào cũng ngưng tụ một nét buồn. Cho đến tận ngày anh ra đi, ở bà vẫn luôn là đôi mắt buồn bã ấy. Một cuộc đời không vất vả nhưng nhàn nhạt và cô đơn đến hoang tê cả cõi lòng. Còn người đàn ông – ông chủ nhà – người mà anh vẫn gọi là cha ấy, ngay từ thời ấu dại anh đã được ông gắp bỏ vào tâm hồn những hòn than tính cách, nóng nảy và tự phụ. Để rồi, mười tám tuổi, anh thành kẻ giết người vì mối tình thời châu chấu và bọ xít. Học phí phải trả cho bài học nông nổi ấy là mươi năm tù – một phần sáu cuộc đời ngắn ngủi. Hai tám tuổi, anh dò dẫm trở lại cuộc dời và bắt đầu từ bục xuất phát. Anh cần biết bao nhiêu cái ký ức trong veo con trẻ để dũng cảm quay về. Ra tù, anh ở lại thành phố, làm bảo kê hai năm. Đẩy đưa chốn đèn mờ, anh biết mình sẽ ngã gục. Làm gì còn cơ hội cho người phạm sai lầm tới lần thứ hai? Thế thì phải đi thôi. Chán thành phố rồi mà tiền cũng lưng lửng túi. Phải đi thôi!
"Chú này, cháu chẳng thể làm gì được. Đã hết vé rồi. Hay là... chú chịu khó đứng, chắc cánh lơ xe cũng chẳng cần vé làm gì, tiền ra là yên chuyện". "Hừ, ông lỏi con, sành sỏi nhỉ!" – Anh bợp nhẹ tai nó. Làm gì với chặng đường hai trăm cây số khi người ta đứng? Không thể! Thế là anh lại đành lỡ một chuyến xe.
Thằng bé "đánh răng thuê" vẫn quay xung quanh anh, những người khách đang ngái ngủ, mời mọc. Cái duy nhất mà nó nhận được là những cái lắc đầu mệt mỏi và đồng loạt giống nhau. "Chán chết!" – thằng bé nói, giọng lộ hẳn vẻ thất vọng. "Sao nào, sao mà chán chết?" – Anh hỏi. "Cả buổi sáng, cháu không kiếm được vị khách nào". "Chuyện thường thôi mà. Ai dạy cháu làm cái nghề kỳ quặc này?". "Sao lại kỳ quặc? Vệ sinh là cần thiết chứ ạ?". "Nhưng cháu nhìn kìa, ở đây người ta chỉ lo đói, rét và khát thôi, đúng không? Còn bẩn thỉu vẫn được, nhất là bẩn thỉu ở những nơi mà người ta hoàn toàn có thể che giấu. Chẳng hạn như không nói, không cười nhiều và nếu cần thì không thở mạnh nữa". "Chú nói, cháu chẳng hiểu gì cả. Nhìn chú không giống một triết gia!".
Thằng bé thông mình đã lật tẩy anh. Những thứ "triết lý" ấy anh học được theo cách nói của "sư phụ" ở trong trại. Ông từng là thạc sĩ rồi bị tóm vì buôn lậu. Trong tù, anh có nhiều thứ từ ông. Ra trước anh hai năm, ông đang tấn tới cửa hàng may trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa ở Sài Gòn. Anh không phải là một triết gia! Anh là một tên tù mới ra trại, một tay bảo kê nhà hàng. Một công dân hạng xoàng. Một đứa con bất hiếu.
Nhưng quá may mắn, anh vẫn là một con người!
Vẫn là một con người nên vẫn có quyền hy vọng. Anh đã chờ mong chuyến xe nay biết bao. Để trở về. Chắc bây giờ mẹ đã xếp nếp gấp đợi chờ nơi đuôi mắt, tay đang cào mái tóc bạc xơ như mái cước rối, ngồi ngóng đợi anh ở hàng hiên. Mẹ không hiểu những cơn đau của đứa con hư khi quay đầu nhìn lại tình thương của mẹ. Anh đã nhận ra từ lâu lắm, nhưng làm sao anh dám quay về? Mẹ bao dung, mẹ hiền từ, nhưng anh trở về để đánh cắp dần dần lòng thương của mẹ? Không! Anh phải ra đi, tự lặn lội để nâng mình lên địa vị của một con người chân chính. Mẹ cần ở anh điều ấy. Và anh hiểu, điều ấy anh cũng cần cho chính mình.
"Chú lỡ xe rồi, chắc là chú buồn lắm?" – Thằng bé vẫn ngồi cạnh anh, vẻ lo lắng. "Nếu là cháu, cháu sẽ thế nào?" – Anh hỏi một câu nghe rõ buồn cười.
"Nếu là cháu, cháu sẽ về hỏi mẹ". "Hỏi mẹ?". "Vâng! Lúc nào mẹ cháu cũng nói đúng! Chú có muốn hỏi mẹ cháu không?". "Hỏi mẹ cháu à?" Anh hơi buồn cười nhìn thằng bé, định bụng đùa trêu nó để giết thời giờ. Nhưng mắt nó đã sáng rực lên, đôi mắt tràn đầy màu nắng sớm: "Vâng, nếu đang ở nhà thì chú cũng hỏi mẹ chú chứ?" Anh bật cười lớn và theo thằng bé, hệt như người ta đi tìm một câu hỏi hơn là một tiếng trả lời.
Anh đâu cần câu trả lời. Anh chỉ cần một chút dũng cảm, một tình yêu thương để trở về. Bắc Kạn! Bắc Kạn là tình yêu mãi mãi.