Polly po-cket
Một trăm mét hạnh phúc

Một trăm mét hạnh phúc

Tác giả: Sưu Tầm

Một trăm mét hạnh phúc

Anh vừa đốt thuốc, vừa uống rượu như một thằng điên. Trong phòng Đằng lúc nào cũng sặc sụa mùi khói thuốc, mùi những bãi nôn mửa chứa đầy cồn đang lên men. "Anh sẽ chết đấy, sớm thôi!!!" - Tôi nói thế hơn một tỷ lần, và lần nào Đằng cũng dửng dưng đáp lại: "Đàn ông nó vậy!". Đấy là tôi còn chưa đả đổng đến vụ Đằng say quắc cần câu ở một pub vỉa hè trên phố và "lên cơn tự sướng" lột áo sơ mi, quần dài và ví tiền của mình, hai tay dâng lên cho một em gái lạ mặt, có đôi chân dài thuột. Giọng "tà lưa": "Em có tin tôi sẽ biến bộ quần áo này trở lại trên người mình, dù em không đứng trước mặt tôi không? Chỉ cần uống với tôi một ly". Em gái thành thật khuyên nhủ: "Words must be weighed, not counted[4]". Đằng sung máu, anh ta đẩy em gái về phía cửa ra vào, hét toáng lên với đám đông đang đứng xem trò vui: "Go, baby, go, go!". Chỉ đợi có vậy, em gái liền hiên ngang biến mất một cách hoành tráng. Khi tôi nhận được điện thoại của nhân viên trong pub và đến nơi thì Đằng đã trơ trụi như con gà bị vặt sạch lông. Tôi rất muốn sút anh ta lên tận mặt trăng.


Vào cuộc hẹn đầu tiên của chúng tôi, Đằng nói: "Em chỉ cần nắm lấy tay anh và anh sẽ đưa em đến một nơi thần thánh". Tôi đã mơ mộng suốt một tuần liền về một bữa tối lãng mạn dưới hoa anh đào hay một thứ gì đó đại loại như thế. Nhưng "cái chỗ thần thánh" mà Đằng đưa tôi tới lại là lễ hội nho truyền thống Budou Matsuri ở vùng Katsunuma. Đằng đến không phải vì những trái nho ngon nổi tiếng tại đây mà vì trong lễ hội mọi người được uống rượu vang miễn phí "thả ga". Hàng năm vào tháng mười, khách du lịch từ khắp mọi nơi trên Nhật Bản đều đổ dồn về Katsunuma để thưởng thức nho và rượu vang trứ danh. Đáng lý tôi nên biết một kẻ gọi bia là "sinh tố lúa mạch" như Đằng thì không thể trông chờ vào kỳ tích sẽ xảy ra. Trên đường về Đằng còn bảo: "Đợi năm sau anh sẽ đưa em đến Spa Hokane ở tỉnh Kowakien Yunessun tắm rượu vang". Tôi trợn ngược mắt nhìn anh, "Nhật Bản chỉ có lễ hội của rượu thôi chắc, hay đầu óc anh bị ngập úng trong đống cồn chết dẫm rồi?". Chỉ đợi có thế, chúng tôi lại bắt đầu cãi nhau trên cả quãng đường về, từ tàu điện ngầm ra đến bến xe bus, từ khi đi bộ đến lúc còng lưng trên chiếc xe đạp đôi.


Đằng và tôi nhanh chóng sống chung trong một căn hộ thuê lại gần trường học, trên tầng áp mái của một tòa chung cư rách nát. Đằng là một kẻ kén ăn trời sinh. Anh không thích đồ ngọt, không thích khoai tây và cà chua bi, mì tôm thì phải đổ ít nước, úp thật nhừ cho đến khi những sợi mì nở bung bét. Đằng hiếm khi vào bếp, ngay cả khi tôi ốm, việc duy nhất anh có thể làm là nấu cháo ăn liền, mà ngay cả món này cũng rất khó nuốt, vì Đằng thường xuyên quên bỏ gói gia vị.


Nhưng thi thoảng Đằng cũng khiến tôi cảm động, nhất là cái cách anh gọi tôi là "Rubi mùa hạ"; và dùng những ngón tay thô ráp của mình chải mái tóc rối bù cho tôi vào mỗi buổi sáng, rồi vụng về giữ lấy, cố gắng không nắm quá chặt khiến tôi đau. Đằng cứ cầm tóc tôi như thế cho đến khi tôi hoàn tất công việc đánh răng và rửa mặt hàng ngày của mình. Tôi bảo Đằng qua gương:


- Anh không nhất định phải làm thế, em có thể kẹp tóc lại.


Đằng hậm hực:


- Buổi sáng em xấu tính chết đi được, cứ vơ bừa cái gì gần tầm với của mình nhất, mà có thể buộc lại được là vớ lấy để cột tóc. Có lần anh thấy cả bít tất của mình trên đầu em đấy, dây áo ngực cũng bị tháo bung ra dùng lung tung rồi cuối tháng lại kêu nhanh dãn.


Chẳng đợi Đằng nói hết câu, tôi quay ra ấn cái miệng đầy kem đánh răng lên má anh. Đó là những giây phút ngọt ngào hiếm có, nhưng bởi vì sự hiện hữu của chúng mà tôi không thể quên được tình yêu của mình với Đằng, hoặc là tôi đã luôn nương tựa vào nó để giữ cho tình cảm của mình không bị "xói mòn". Những ký ức ấy giống như con đập ngăn ở trái tim tôi, mọi thứ chẳng thể nào trôi tuột và biến mất như đáng ra nó phải thế. Ngay cả lúc ngỡ là sẽ chia tay Đằng, khoảng thời gian hạnh phúc đó lại khiến tôi cảm thấy nuối tiếc đến mức không nỡ buông lơi.


***


Từ ngày tôi qua Nhật, Phạm thường gửi cho tôi ít nhất một email mỗi tuần. Chúng tôi gìn giữ sợi dây kết nối ấy một cách cẩn trọng. Phạm là người duy nhất tôi có thể tâm sự, nhưng dạo ấy tôi lại chưa bao giờ kể với anh về Đằng. Xong bằng cách nào đó tôi tin là Phạm vẫn cảm nhận được. Có lần, Phạm gửi cho tôi một email ngắn ngủn, chỉ có vài dòng chữ lưa thưa, Phạm viết:


"Tình yêu là điều không cần phải nói nhưng ai cũng biết, là thứ có thể bỏ rơi bất cứ lúc nào nhưng lại khó lòng thực hiện được. Còn hạnh phúc giống như một con dao hai lưỡi, vào thời khắc tuyệt vọng nhất nó kéo em lên, nhưng cũng vì thế mà em không cách nào rời xa được nó, ngay cả khi em biết rằng con đường em đang đi đã được báo trước là vô vàn nguy hiểm".


Lúc tôi ngồi đọc đi đọc lại bức email này của Phạm, cố để bóc tách những ẩn ý đằng sau đó, thì Đằng đang nằm bò ra ghế salong chơi Flappy Bird trên máy điện thoại và liên tục chửi bậy. Tình cảm của tôi đối với Đằng không quyết liệt tới mức thiếu anh thì tôi không thể sống nổi. Nếu một ngày nào đó, Đằng biến mất khỏi cuộc đời tôi, tôi vẫn có thể ăn, có thể ngủ, diện những bộ cánh đẹp ra đường, vỗ vỗ má cho nó thắm hơn khi tình cờ lướt qua một anh chàng handsome. Nhưng đấy là nếu một ngày nào đó Đằng tự nhiên biến mất. Còn bây giờ, Đằng đang ở trước mặt tôi, vừa chơi Flappy Bird, vừa quăng tục, nhưng cứ tầm nửa tiếng lại liếc mắt trông chừng con Gấu - Con chó Nhật mà chúng tôi mới nhận nuôi hồi đầu tháng trước, xem nó có cắn ống quần tôi không. Nếu con Gấu đang mon men lại gần tôi, Đằng sẽ hằm hè nhìn nó, quát nhẹ: "Yên nào, Gấu. Để mẹ làm việc". Điều ấy thiết thực hơn những bức email, gần gũi hơn cả thứ được gọi là "hạnh phúc". Tôi nhắn lại cho Phạm:


"Hạnh phúc là một ván cờ, đôi khi đắn đo được mất chưa chắc đã thắng".


Phạm có vẻ không hài lòng vì mãi lâu sau tôi cũng không thấy anh gửi lại cho mình một bức thư nào nữa. Tôi nghĩ, có lẽ, cuối cùng thì anh cũng chịu đầu hàng. Khi yêu một ai đó, chúng ta đều trở nên khó bảo, ngang ngạnh và ương bướng khủng khiếp.


Từ khi còn nhỏ tôi đã dính lấy Phạm như keo. Tôi làm chú rể còn Phạm làm cô dâu vì hồi bé Phạm hiền lành như một cô gái. Chúng tôi lén lấy gạo của bà ngoại trốn sau trái nhà, bắc hai hòn gạch rồi nhóm lửa thổi cơm trong những lon sữa Ông thọ đục nắp. Nắm cơm sượng sạo được Phạm vo tròn lại rồi ăn ngon lành. Những ký ức ấy đong đầy như cơn mưa đầu mùa hạ mà người ta tha thiết hứng lấy, ngọt lịm và tinh nguyên nhưng chưa đủ để xáo động thành một thứ tình cảm khác đặc biệt hơn.


Tôi cũng sẽ buồn khi Phạm khóc, cười khi Phạm vui, cũng sẽ đan áo cho Phạm những khi đông trở mùa, sẽ nhớ Phạm khi một ngày ghé qua Paris mà không thấy anh ở đó. Nhưng dẫu nhiều hơn thế vẫn không đủ để yêu. Có lần Phạm buồn buồn bảo: "Chúng ta chỉ còn thiếu một trăm mét nữa là tới được tình yêu". Một trăm mét không xa cũng không gần, nhưng con đường của tôi lại không có ngã rẽ nào dẫn về phía Phạm.


Tôi dễ dàng xao xuyến khi Đằng chạm tay vào má mình hay khi anh xoắn tóc tôi bằng ngón trỏ ố vàng rồi khúc khích cười, dài giọng rao: "Ai kẹo kéo, ai ăn kẹo kéo đê". Cảm giác trái tim mình như có ngọn gió khều khều qua buồn buồn. Phạm thì làm cho tôi gấp trăm lần hơn thế. Anh ôm đàn cùng tôi hát lang thang ở những bến xe bus để kiếm vài đồng lẻ uống cà phê trong khi túi vẫn còn rủng rỉnh tiền; hai đứa ngồi co ro trên một băng ghế đá ngoài công viên lạnh toát cả mông vào một tối mùa đông không trăng không sao lải nhải về Đằng và những lần tôi khóc.


Tôi đã không ngừng lảm nhảm với Phạm rằng tôi muốn sống ở Paris đến hết tuổi thanh xuân của mình. Phạm nghe, cười và sau đó tiệm thủy sinh Paris "quái quỷ" ra đời. Phạm sẽ vui vẻ đến những buổi mai mối tôi sắp đặt, gật đầu trịnh trọng khi nghe tôi khuyên nhủ: "Già rồi, yêu đi ông ạ". Phạm chưa bao giờ trở thành gánh nặng của tôi, hoặc là anh luôn cố gắng để tôi không thấy mình mắc nợ anh quá nhiều. Phạm khiến tôi cảm động xong vẫn không phải là yêu. Phạm đã luôn ở đây, trong cuộc đời tôi nhưng không phải trong trái tim tôi.


***


Đằng đẩy cửa và bước vào Paris, anh thậm chí không thèm chào Phạm, mặt hằm hằm Đằng lôi tôi dậy. Anh lúc nào cũng bỏ lại ba chiếc cúc sơ mi phía trên cùng không cài, để lộ ra vòm ngực quyến rũ và một phần hình xăm âm dương. Tôi không hiểu tại sao vào giờ phút này mình vẫn còn chủ ý đến những điều nhỏ nhặt ấy. Tôi cố ngoái đầu lại chào Phạm, nhưng anh đã không còn đứng đấy, chỉ có những bể thủy sinh đang sục khí trắng xóa luôn khiến tôi cảm thấy chống chếnh. Đằng thô lỗ xoay đầu tôi lại như bọn trẻ con vẫn làm khi xoáy đầu những con búp bê ra để lồng những chiếc váy một dây qua cổ.


"Vì sao em luôn đến đấy hả?", Đằng hỏi khi chúng tôi đang băng qua đường mà chưa có tín hiệu dành cho người đi bộ. "Anh sẽ lấy em chứ?", tôi đáp. "Em thôi đi, và nói cho anh biết, vì sao em luôn đến đấy, hả?". "Lấy em chứ?", Đằng giằng tay mình ra khỏi tay tôi, anh đi nhanh về phía trước, rồi bất chợt thắng gấp và lộn ngược trở lại: "Vì sao em luôn đến đấy, nói đi". "Lấy em", tôi nhả mạnh từng chữ. Nhưng khác với mọi khi, Đằng không bỏ đi ngay tắp lự, anh đứng chắn trước mặt tôi. Môi anh mím lại thành một đường kẻ dài. Bóng Đằng đổ ập vào mắt tôi đến nỗi tôi chẳng thể nhìn rõ những gì đang xảy ra phía trước. Trong lúc quếnh quáng tôi có cảm giác ngón tay mình bị xiết chặt lấy một cách êm ái. Đằng hỏi:


"Một trăm mét hạnh phúc có xa không?".


Đâu đó, tôi nghe, Fly me too the Moon tước lời lại vang lên như một bài thánh ca.


[1] Văn bằng tiếng Pháp


[2] Phú Sĩ.


[3] Lời bài hát Fly me to the Moon:


Hãy để bài hát vang lên trong hồn em/ Và để em hát ca không ngừng/ Anh là tất cả những gì em ao ước/ Tất cả những gì em tôn thờ và ngưỡng mộ/ Nói cách khác là, xin anh hãy chân thành với em/ Nói cách khác là, Em yêu Anh.


[4] Cân nhắc trước khi nói.