Giá mình có ai đó để yêu
Giá mình có ai đó để yêu
Anh không thường để ý đến cô. Những lúc về nhà, anh luôn vùi đầu vào ngủ. Họ ít nói chuyện, nếu có, chỉ xoay quanh đứa con chưa chào đời. Nhưng có những thói quen của cô, anh vẫn biết, ví như cô là người nhìn qua có vẻ tùy tiện, xong thực chất lại sống rất máy móc. Khi rửa mặt cô nhất định phải giặt khăn và lau mặt đủ ba lần, dù có vội đến mấy. Có bận không nén được tò mò anh hỏi: "Làm thế tốt cho da mặt à?", không ngờ cô bảo: "Chỉ là thói quen thôi". Lúc pha trà, cô luôn đổ nước trước, sau đó mới nhúng gói trà xuống sau.
Cô làm việc nhà theo một trình tự cố định, tức là không có chuyện, lau nhà rồi mới gấp chăn, luôn luôn là: dọn dẹp giường ngủ trước - kéo ri đô trên các cửa sổ - quét tước bắt đầu từ phòng ngủ ra đến phòng khách rồi mới tới phòng bếp - trong khi ngâm rẻ lau nhà, cô sẽ tranh thủ cọ rửa nhà tắm. Cô cần tạo cho mình một vài thói quen, để ép buộc bản thân phải sống trên một đường thẳng. Cô không sợ phải làm đi làm lại một việc hàng ngày. Cái cô sợ là một ngày nào đó, ngay cả những việc nhàm chán này cô cũng không muốn làm nữa. Vậy thì có khác gì người đã chết.
Khi đi chợ, cô luôn chỉ mua ở những cửa hàng quen, nếu hôm ấy hàng thịt bò ở ki ốt số 17 đóng cửa, thì cả nhà cũng nghỉ ăn thịt theo. Một lần, anh thấy cô cứ mặc mãi quần áo của hãng Canifa, từ mùa đông cho đến mùa hè, tới nỗi quanh nhà chất đầy những túi đựng màu đỏ chót. Anh bảo: "Em là cô gái Canifa đấy à?". Cô nhún nhún vai: "Chỉ là em quen rồi". Bởi vì sống quá lâu cùng một người, anh nghĩ thế, khi người ta cứ chạm mặt nhau mỗi ngày, thì tự nhiên có thể tự động ghi nhớ nhau một cách không có chủ ý.
Sau khi lấy cô, sự nghiệp của anh phất lên như diều gặp gió. Lúc con gái tròn ba tuổi, họ đã tích đủ tiền mua nhà - một căn hộ ngay gần trung tâm thành phố. Từ đó, anh bắt đầu có thói quen tặng giầy cho cô. Mỗi lần giao mùa, anh sẽ đi dạo khắp các cửa hàng, nếu thấy có mẫu mã nào mới, vừa mắt, anh đều không tiếc tiền mua về, từ cao gót, xăng đan, giầy bệt, thể thao...với đủ loại nhãn hiệu. Có điều, tất cả các đôi giầy anh chọn luôn là cỡ ba mươi sáu. Trong nhà của họ, bày đầy những kệ giầy lớn nhỏ, có đôi, cô mới chỉ kịp xỏ chân một vài lần. Nhưng anh hiếm khi kêu cô đi thử cho mình ngắm, cũng không biết cô mang có hợp và vừa chân không. Chỉ duy hồi mới cưới, anh đã mua một đôi giầy cao gót màu xanh dương, có đính thêm những viên đá tròn óng ánh và bảo cô đi cho mình xem. Cô nói, rất hiếm người đàn ông mua giầy tặng vợ, vì có khi suốt đời cũng không biết size giầy của vợ là bao nhiêu. Rồi, cô vui vẻ thử giầy, đi đi lại lại trước mặt anh. Nhưng bấy giờ, anh cũng không buồn để ý lắm, vì trước mắt anh, khung cảnh bỗng trở nên nhòe nhoẹt. Suốt một tuần liền sau đó, cô luôn mang đôi giầy anh tặng đi làm. Bước chân của cô lúc lên xuống cầu thang có đôi phần khó khăn và chậm chạp. Anh hỏi: "Sao thế, không vừa?". Nhưng cô lắc đầu bảo: "Vừa lắm, chỉ vì em chưa quen đi giầy cao gót thôi". Anh cũng mau chóng lãng quên chuyện này, cho nên không hề để ý thấy mỗi ngày trở về nhà, hai gót chân của cô đều bị phồng rộp và bong chóc da đến rướm máu.
Nhiều năm qua đi, anh vẫn tặng cô giầy cỡ ba mươi sáu, còn cô luôn mỉm cười đón nhận, chưa bao giờ gạn hỏi: "Tại sao không phải là một món quà khác?". Ngay cả bản thân cô cũng không hiểu được lý do mình phải làm thế. Cũng như trước đây, mỗi ngày mưa cô đều mất ngủ vì những chiếc ô bảy sắc cầu vồng không ngừng đưa qua đưa lại, nhưng chẳng hề tìm anh phàn nàn nửa câu.
Cho đến một ngày, khi đang chơi cùng con gái, đứa bé cứ sờ soạng gót chân anh rồi ngây ngô hỏi: "Cha ơi vì sao chân cha không có ba mắt ?". Anh lấy làm lạ. Con gái bập bẹ giải thích: "Sau hai chân mẹ có cục u cứng như đá. Mẹ bảo con đó là mắt thứ ba của bàn chân, giống cô bé có ba mắt thần kỳ". Anh sững sờ, đêm ấy anh để ý bàn chân vợ. Chẳng biết từ bao giờ, sau gót chân cô, lớp da nhẵn thín đã trở lên sần sùi, cứng ngắc. Anh nhìn không chớp mắt vào những vết chai sạn hình bầu dục xấu xí, lòng anh bấy giờ vô cùng phiền muộn và rối rắm: "Những đôi giầy vốn không vừa chân, sao em còn đi chúng?". Giữa đêm khuya, tiếng nói rất đỗi hiền lành của cô như gõ từng nhịp một vào trái tim anh: "Em quen rồi". Ngày ấy, họ vẫn nằm quay lưng về phía nhau. Anh không nhìn thấy được mặt cô. Nhưng trước khi chìm vào giấc ngủ, anh bỗng nghe thấy mình nói: "Mai anh đi công tác. Đợi anh về, mình cùng đi mua một đôi giày mới, được không?". Trong mơ, anh thảng thốt nhớ lại, cái đêm anh ôm cô ngoài ban công. Cái đêm mà rõ ràng anh ôm cô vào lòng, nhưng dường như anh lại không ở đó.
***
Lần này thì cô biết mình tỉnh dậy thực sự, vì chồng cô không còn ngồi cạnh cô. Xe đã dừng hẳn lại. Từ cửa kính nhìn ra, cô có thể thấy bờ biển trải dài hun hút, và những con sóng vỗ chập chùng.
- Đến nơi rồi, con vẫn ổn chứ?
Giọng nói khàn khàn ấy là của cha chồng cô. Lúc này ngay cả một cái gật đầu cũng khó khăn làm sao. Rất nhiều người đang tiến về phía cô, vành mặt họ đều đỏ hoe. Một người đàn ông – gần bằng tuổi chồng cô, đưa tay mở cửa xe và đỡ cha chồng cô xuống, một người khác chạy tới dìu cô.
- Chúng cháu vẫn chưa tìm thấy anh ấy.
Cô nghe mọi người nói. Cô chưa bao giờ nghĩ về tương lai của bọn họ, cũng như việc anh và cô có thể cùng nhau trải qua năm năm hôn nhân tính đến thời điểm hiện tại, đối với cô đã là một kỳ tích. Thế nên, khi người ta đến báo với cô anh đã chết, trong khi cứu một cô gái trẻ, anh không đủ sức để bơi vào bờ, sóng quá lớn, nhiều ngày nay vẫn chưa tìm thấy xác. Cô nghĩ, vậy là cuối cùng họ cũng rời xa nhau.
Cô lênh đênh trên biển cả ngày, cô nhìn những người thợ lặn chìm xuống rồi nổi lên như những chiếc phao cứu sinh. Vài người trong đoàn khuyên cô ở lại bờ, cô gật đầu, bảo: "Cám ơn, tôi khỏe". Cô thật sự khỏe, cô thậm chí không biết mệt mỏi. Cô rất bình tĩnh, bình tĩnh đón nhận tất cả, người ta chỉ đau khổ khi mất đi người mình yêu thương, mà giữa anh và cô vốn không tồn tại thứ gọi là tình yêu, cô không yêu anh và anh cũng vậy. Cô không cho rằng người ta nhất định phải lấy nhau vì yêu. Một mối quan hệ ràng buộc nhau bởi tình yêu thậm chí còn tiềm ần nhiều bất trắc và biến cố hơn bất kỳ mối quan hệ nào khác trên đời này.
Đến ngày thứ bảy hay thứ tám thì họ tìm thấy chồng cô. Lúc thay quần áo cho anh, cô còn cẩn thận lau khô từng bên tóc. Cô biết anh không thích nhất là để tóc ướt đi ngủ. Cô khe khẽ thì thầm: Chúng ta không hẹn nhau kiếp sau, bởi vì chỉ có những người yêu nhau mới mong được gặp lại. Anh hãy yên tâm đi đến nơi mà anh muốn, gặp người mà anh thương...
***
Rất lâu, rất lâu sau này, con gái nói với với cô, mẹ ơi cái cây của cha mọc lên rồi. Cô hỏi, cái cây nào hả con? Con gái chỉ xuống khu vườn trống dưới nhà, ở kia kìa, mẹ có thấy không, cái cây xa nhất ấy. Lúc xưa, cha thường cùng con đứng ở trên này và thi xem ai nhủ hột nhãn ra xa hơn. Cha bảo, mai này những cái cây sẽ mọc lên, và đi tìm người thân thuộc về mình. Chỉ có người thân yêu nhất mới nguyện che chở cho chúng - những cái cây hoang dại ra đời.
Mọi người hay quen kể lể về nỗi buồn, ngay cả phần lớn niềm vui khi được nhắc tới cũng gắn chặt với nỗi buồn. Vì thế, cô ít khi hồi tưởng, từ ngày anh chết. Những cái cây "cha con" mà con gái đánh dấu trong vườn, như xưa, cô không nhổ lên mà cũng chẳng có ý định chăm sóc. Nhưng vào những ngày mưa, con gái hay chạy quanh nhà hỏi: Mẹ ơi, những cái ô cầu vồng từ đâu đến? Có phải nó tới sau cơn mưa? Hay là cây con đã tìm thấy người thân của chúng? Mẹ ơi, những cái ô cầu vồng từ đâu đến?
MY VIỆT